Câu hỏi trên chắc chắn có nhiều bạn thắc mắc, dưới đây là trích dẫn từ bài viết trên trang Kinhtedothi.vn. CafeL.xyz xin phép được trích dẫn lại.
Câu hỏi : Tôi có một mảnh đất, do tôi trực tiếp đứng tên trên sổ đỏ. Hiện tôi muốn để lại cho con gái ruột của mình. Tuy nhiên, cháu mới được 6 tuổi, vậy cháu có được đứng tên trên sổ đỏ hay không?” – Bùi Thị Thu Hải, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Trả lời:
Theo Khoản 1 Điều 97 Luật Đất đai 2013, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (gọi tắt là sổ đỏ) được cấp cho người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.
Cũng tại Điều 5 và Điều 97 Luật Đất đai 2013 chỉ quy định người sử dụng đất bao gồm hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài và đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.
Ngoài ra, Điểm a, Khoản 1 – Điều 5 Thông tư 23/2014/TT-BTNMT, được sửa đổi bởi Khoản 4 – Điều 6 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT quy định về việc thể hiện thông tin về người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất tại trang 1 của Giấy chứng nhận như sau:
Cá nhân trong nước thì ghi “ông” (hoặc “bà”), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân (nếu có), địa chỉ thường trú. Giấy tờ nhân thân là Giấy chứng minh nhân dân thì ghi “CMND số:…”; trường hợp Giấy chứng minh quân đội nhân dân thì ghi “CMQĐ số:…”; trường hợp thẻ Căn cước công dân thì ghi “CCCD số:…”; trường hợp chưa có Giấy chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân thì ghi “Giấy khai sinh số…”
Như vậy, hiện tại pháp luật về đất đai không hạn chế về độ tuổi của người đứng tên trên Giấy chứng nhận. Hay nói cách khác, người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) vẫn có thể đứng tên trên Giấy chứng nhận và bạn hoàn toàn có thể để con gái 6 tuổi đứng tên.
Tuy nhiên, bạn cũng cần lưu ý, mặc dù được đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất song người chưa thành niên không thể tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất mà phải thông qua người đại diện theo pháp luậ t(theo Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015).