TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đánh giá Luật Kinh doanh BĐS sửa đổi (2023) là dự án Luật rất quan trọng, sẽ góp phần thúc đẩy thị trường đất đai, xây dựng và BĐS ở Việt Nam phát triển lành mạnh, minh bạch, bền vững hơn.
Nhóm chuyên gia chỉ rõ 10 điểm mới của Luật và đưa ra 6 kiến nghị quan trọng.
LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo đánh giá nhanh tác động của Luật Kinh doanh Bất động sản sửa đổi (2023) và đưa ra các kiến nghị. Chúng tôi xin phép được đăng tải nguyên văn báo cáo để quý độc giả tiện theo dõi.
Đánh giá chung
Ngày 28/11/2023, Quốc hội đã thông qua Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi); có hiệu lực từ ngày 1/1/2025. Theo đó, Luật Kinh doanh bất động sản sửa đổi (2023) gồm 10 chương, 83 điều (so với 6 chương, 82 điều tại Luật Kinh doanh Bất động sản 2014); trong đó có nhiều điểm mới quan trọng, thể chế hóa chủ trương, định hướng của Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 16/6/2022, đồng thời đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán với Luật Nhà ở sửa đổi (2023), Luật Đất đai (sửa đổi) 2024 và các luật liên quan khác.
Đây là dự án Luật quan trọng; tác động đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Luật Kinh doanh BĐS sửa đổi cùng với Luật đất đai sửa đổi, Luật Nhà ở sửa đổi (cùng có hiệu lực từ 1/1/2025) là bước tiến lớn về hoàn thiện thể chế, thúc đẩy thị trường đất đai, xây dựng và bất động sản (BĐS) Việt Nam phát triển lành mạnh, minh bạch và bền vững hơn.
Mười (10) điểm mới của Luật Kinh doanh BĐS 2023 và tác động đến người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế
Thứ nhất, thống nhất và bổ sung nhiều khái niệm pháp lý quan trọng:
Luật Kinh doanh BĐS sửa đổi thống nhất và làm rõ hơn phạm vi áp dụng với nhiều trường hợp cụ thể như: tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh BĐS thì phải đáp ứng các điều kiện của Luật Đầu tư; đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở thì phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định của pháp luật về nhà ở; việc cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai…v.v.
Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung, làm rõ các khái niệm liên quan đến kinh doanh BĐS, kinh doanh dịch vụ bất động sản, chuyển nhượng dự án BĐS, hợp đồng kinh doanh BĐS, hợp đồng kinh doanh dịch vụ BĐS…v.v. Đáng chú ý nhất, Luật đã làm rõ các loại BĐS theo công năng (bổ sung quy định cụ thể về các loại hình công trình xây dựng có sẵn, công trình xây dựng hình thành trong tương lai; bao gồm công trình xây dựng có công năng phục vụ mục đích giáo dục, y tế, thể thao, văn hóa, văn phòng, thương mại, dịch vụ, du lịch, lưu trú, công nghiệp và công trình xây dựng có công năng phục vụ hỗn hợp) và bổ sung “phần diện tích sàn xây dựng” (trong công trình xây dựng có sẵn, công trình xây dựng hình thành trong tương lai, bao gồm công trình xây dựng có công năng phục vụ mục đích giáo dục, y tế, thể thao, văn hóa, văn phòng, thương mại, dịch vụ, du lịch, lưu trú, công nghiệp và công trình xây dựng có công năng phục vụ hỗn hợp) vào các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh.
Đây là các điểm mới quan trọng, góp phần giảm tình trạng chồng chéo, mỗi nơi hiểu 1 kiểu, cán bộ thực thi không biết làm thế nào gây ảnh hưởng đến khâu thực thi pháp luật còn yếu như hiện nay; từ đó giúp giảm thời gian, chi phí triển khai dự án của DN, tăng nguồn cung để người dân có nhiều lựa chọn với mức giá hợp lý hơn. Với tổ chức tài chính, khung pháp lý được hoàn thiện và nhất quán sẽ hỗ trợ hoạt động đầu tư, cho vay, chuyển nhượng dự án và xử lý nợ xấu được thuận lợi hơn. Tuy nhiên, tác động tích cực này phụ thuộc nhiều vào khâu hướng dẫn và thực tế triển khai thực hiện sau này.
Đồng thời, việc Luật lần này bổ sung quy định về phần diện tích sàn xây dựng trong các công trình xây dựng cụ thể sẽ khắc phục bất cập hiện nay khi Luật Kinh doanh bất động sản 2014 chưa điều chỉnh các loại hình sản phẩm BĐS mới phát sinh trong thực tiễn như Condotel, Officetel…v.v. Các loại hình sản phẩm này chính là phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng (mỗi “căn hộ du lịch – condotel” là một phần diện tích của công trình xây dựng các condotel), do đó, Luật mới tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho việc đầu tư, kinh doanh các sản phẩm condotel, officetel… đã có trên thực tế. Đồng thời, quy định mới cũng có khả năng bao quát hơn (quy định “quét”) nếu trong thực tiễn có thêm các sản phẩm BĐS mới trong các công trình xây dựng này.
Thứ hai, việc công khai thông tin BĐS đưa vào kinh doanh được quy định chặt chẽ hơn và bổ sung các hành vi bị cấm. Luật sửa đổi đã chi tiết hóa, hướng dẫn cụ thể về các thông tin cần cung cấp (Điều 6) gồm: địa điểm công bố thông tin, các thông tin về dự án BĐS, các thông tin về nhà ở, công trình xây dựng, về quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS…v.v. Đồng thời, để hạn chế các sai phạm, tranh chấp như trong thời gian qua, Luật sửa đổi đã bổ sung, làm rõ một số hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8); đáng chú ý như: (i) giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch, không công bố thông tin; (ii) huy động và sử dụng tiền thu bên mua, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng hình thành không đúng quy định của pháp luật; (iii) cấp và sử dụng chứng chỉ hành nghề môi giới BĐS không đúng quy định của pháp luật kinh doanh bất động sản….v.v.
Các nội dung này góp phần tăng sự công khai, minh bạch về thông tin dự án, giúp người mua có khả năng tiếp cận thêm nhiều thông tin hơn. Đặc biệt, Luật sửa đổi quy định rõ các thông tin phải được cập nhật khi có sự thay đổi sẽ ràng buộc thêm trách nhiệm của chủ đầu tư, tăng khả năng bảo vệ người mua, giảm rủi ro tranh chấp. Theo đó, các cơ quan chức năng cần lưu ý hướng dẫn phương thức cung cấp thông tin, chế tài và tính tuân thủ pháp luật.
Thứ ba, quy định rõ và tăng điều kiện kinh doanh BĐS. Luật sửa đổi (Điều 9) quy định, khi đồng thời thực hiện nhiều dự án đầu tư BĐS, DN kinh doanh BĐS phải có vốn chủ sở hữu không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 ha trở lên và phải bảo đảm khả năng huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư; trường hợp DN kinh doanh BĐS đồng thời thực hiện nhiều dự án thì phải có vốn chủ sở hữu đủ phân bổ để bảo đảm tỷ lệ nêu trên của từng dự án để thực hiện toàn bộ các dự án. Đồng thời, Luật sửa đổi cũng quy định các điều kiện như phải lập DN hoặc hợp tác xã (trừ quy mô nhỏ hoặc không nhằm mục đích kinh doanh), hạn mức dư nợ tín dụng và TPDN… và giao Chính phủ quy định chi tiết việc xác định kinh doanh BĐS quy mô nhỏ.
Đây là nội dung quan trọng, góp phần hạn chế rủi ro một DN thực hiện nhiều dự án mà không đủ năng lực tài chính như thời gian vừa qua, gây ra nhiều hệ lụy cho thị trường, người mua; tăng tính “chính thống” và nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước khi kinh doanh BĐS. Theo đó, các cơ quan chức năng cần lưu ý khâu hướng dẫn, giám sát và chế tài triển khai sau này.
Thứ tư, mở rộng quyền kinh doanh BĐS của người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam. Luật đã bổ sung việc cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật về quốc tịch được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì được kinh doanh BĐS theo các hình thức tương đồng với công dân Việt Nam ở trong nước (Điều 10). Trường hợp, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không phải là công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật về quốc tịch được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì tiếp tục thực hiện như Luật KD BĐS 2014 (chủ yếu là “đầu tư, cho thuê, thuê mua” nhà ở, hạ tầng kỹ thuật; không quy định được “mua” nhà ở). Quy định này sẽ giúp đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư, phát triển BĐS tại Việt Nam một cách hợp lý, trong kiểm soát; làm rõ điều kiện được “mua” nhà ở. Theo đó, các cơ quan chức năng cần lưu ý xây dựng các quy định về việc quản lý “chính chủ” do việc xác định trong thực tế sẽ không dễ dàng.
Thứ năm, kết cấu lại, bổ sung, làm rõ các quy định liên quan đến từng loại hình BĐS được đưa vào kinh doanh tại các Chương II (Kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng có sẵn), Chương III (Kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai) và Chương IV (Kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS), trong đó, các nội dung mới đáng chú ý như sau:
– Đối với việc kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng có sẵn:Luật quy định thời điểm xác lập quyền sở hữu là khi bên mua, bên thuê mua đã nhận bàn giao nhà ở, công trình xây dựng (trong khi quy định hiện tại là khi bên bán bàn giao nhà, công trình xây dựng cho bên mua). Như vậy, so với Luật 2014, Luật sửa đổi đã quy định rõ hơn về việc quyền sở hữu chỉ được xác lập khi bên mua đã chấp nhận nhận bàn giao nhà ở, từ đó giúp hạn chế các tranh chấp phát sinh, bảo vệ quyền lợi của người mua BĐS.
– Đối với việc kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai: Nhiều quy định mới đã được bổ sung hoặc làm rõ hơn như: (i) quy định chi tiết, cụ thể hơn các điều kiện đưa nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai vào kinh doanh (Điều 24); (ii) luật hóa việc triển khai hình thức đặt cọc vốn đang gặp nhiều sai phạm trong thời gian qua (cho phép chủ đầu tư dự án BĐS được phép thu tiền đặt cọc không quá 5% giá bán, cho thuê mua) (Điều 23); (iii) giảm tỷ lệ thanh toán khi mua nhà ở hình thành trong tương lai, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng bao gồm cả tiền đặt cọc, những lần tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao nhà ở, không quá 95% khi bên mua, bên thuê mua chưa được cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Đối với giao dịch thuê mua, số tiền thanh toán trước cho bên cho thuê mua không quá 50% giá trị nhà ở (thay vì 70% như hiện nay); (iv) cho phép người mua được lựa chọn việc có hoặc không có bảo lãnh cho nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với mình(Điều 26). Tuy nhiên, các cơ quan chức năng cần lưu ý làm rõ, nếu người mua không yêu cầu có bảo lãnh NH, thì chủ đầu tư phải có bảo lãnh NH trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai hay không? (Điều 26 chưa nêu rõ).
Đây là các nội dung mang tính đột phá, giúp đa dạng hóa các hình thức huy động vốn của chủ đầu tư để giảm áp lực dòng tiền khi triển khai dự án; đảm bảo thống nhất triển khai giữa các Bộ, ngành, địa phương và thực hiện cam kết của DN khi thực hiện dự án BĐS; tăng lựa chọn cho khách hàng về khía cạnh bảo lãnh, góp phần giảm chi phí giá thành (do có thể chủ đầu tư tính chi phí bảo lãnh vào giá BĐS). Tuy nhiên, người mua nhà cũng sẽ phải chấp nhận rủi ro nhất định (khi không có bảo lãnh). Vì thế, việc xem xét lựa chọn kỹ chủ đầu tư, tính pháp lý và khả thi của dự án là rất quan trọng.
– Đối với việc kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS: Luật sửa đổi quy định chặt chẽ hơn về việc kinh doanh quyền sử dụng đất, cụ thể:
- (i) Bổ sung các quy định về việc phải hoàn thành hạ tầng kỹ thuật để đưa quyền sử dụng đất vào kinh doanh (Điều 29);
- (ii) Không cho phép phân lô, bán nền tại khu vực phường, quận, thành phố của đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III; và trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để đầu tư dự án xây dựng nhà ở theo quy định của Luật Đất đai 2024 thì không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho cá nhân tự xây dựng nhà ở (Điều 31). Các quy định mới này là rất cần thiết để kiểm soát tình trạng phân lô, bán nền khi chưa đáp ứng các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật, hạn chế lừa đảo bán đất trên giấy đã xảy ra trong thời gian qua, cũng như đảm bảo các điều kiện sinh hoạt, an sinh xã hội của khu vực dự án.
Thứ sáu, vấn đề chuyển nhượng dự án BĐS được quy định chặt chẽ, rõ ràng hơn (chương V). Luật sửa đổi quy định chặt chẽ, rõ ràng hơn đối với điều kiện chuyển nhượng toàn bộ hoặc 1 phần dự án BĐS, điều kiện đối với bên nhận chuyển nhượng dự án BĐS…; từ đó giúp tăng tính thực thi trong chuyển nhượng dự án, với ba điểm đáng lưu ý.
- Một là, đã làm rõ nguyên tắc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án BĐS (Điều 39), theo đó chủ đầu tư chỉ được chuyển nhượng dự án BĐS khi dự án đang trong thời hạn thực hiện được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận; việc chuyển nhượng dự án không được thay đổi quy hoạch của dự án; làm rõ nghĩa vụ của bên nhận chuyển nhượng là phải kế thừa các quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư chuyển nhượng.
- Hai là, làm rõ hơn điều kiện của dự án chuyển nhượng (Điều 40) như dự án không bị đình chỉ, phải thực hiện giải chấp nếu đang thế chấp, dự án còn trong thời gian thực hiện, dự án chuyển nhượng một phần phải đảm bảo tính độc lập của phần chuyển nhượng; bổ sung trách nhiệm của bên nhận chuyển nhượng là phải cam kết tiếp tục triển khai dự án theo đúng nội dung đã được phê duyệt, nếu thay đổi thì phải xin phép, phải hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ tài chính trước khi chuyển nhượng; việc chuyển nhượng dự án phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật liên quan như đầu tư, đất đai. Ba là,hướng dẫn chi tiết hơn về thẩm quyền chuyển nhượng dự án BĐS (Điều 41) bằng việc bổ sung trường hợp thực hiện theo Luật Đầu tư: nếu dự án được chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tưvà bổ sung trường hợp Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho UBND cấp tỉnh cho phép chuyển nhượng.
Tuy nhiên, cần lưu ý, các điều kiện chuyển nhượng dự án BĐS có liên quan đến nợ xấu chưa được quy định rõ và việc chuyển nhượng cũng sẽ phức tạp hơn đối với DNNN (vì còn phải tuân theo các quy định của Luật quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp).
Thứ bảy, quy định trường hợp bắt buộc phải thanh toán không dùng tiền mặt. Luật quy định khi trong giao dịch mà 1 bên là chủ đầu tư dự án, DN kinh doanh BĐS, DN kinh doanh dịch vụ BĐS thì phải thanh toán thông qua tài khoản mở tại một TCTD đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam (Điều 48). Đồng thời, tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS phải ghi đúng giá giao dịch thực tế vào trong hợp đồng; chịu trách nhiệm trong việc ghi giá giao dịch trong hợp đồng không đúng với giá giao dịch thực tế (Điều 47). Quy định này là cơ sở quan trọng để hạn chế tình trạng 2 giá trong giao dịch BĐS, gây thất thu thuế và khó khăn trong việc xây dựng dữ liệu BĐS cũng như định giá BĐS sau này.
Thứ tám, hoàn thiện khung pháp lý đối với hoạt động của sàn giao dịch BĐS và môi giới, tư vấn và quản lý BĐS. Luật sửa đổi khuyến khích các giao dịch BĐS được thực hiện qua sàn giao dịch BĐS; bổ sung, làm rõ nhiều quy định liên quan đến nguyên tắc, điều kiện thành lập, hoạt động của sàn giao dịch BĐS (có thể giao dịch điện tử) và hoạt động môi giới BĐS. Tuy nhiên, Luật giao Chính phủ quy định, hướng dẫn chi tiết khá nhiều đối với nội dung này.
Một số quy định cụ thể đáng lưu ý như:
- (i) hoạt động môi giới BĐS phải có cơ sở vật chất, có nhân sự đáp ứng các tiêu chí chuyên môn, có quy chế hoạt động…;
- (ii) cá nhân hành nghề môi giới, tư vấn BĐS phải hoàn thành các khóa đào tạo hàng năm, có chứng chỉ hành nghề; không cho phép cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới BĐS độc lập (như vừa qua) mà phải là nhân viên của công ty môi giới BĐS;
- (iii) cá nhân môi giới không được hưởng hoa hồng môi giới trực tiếp từ khách hàng;
- (iv) qui định rõ điều kiện đối với cơ sở đào tạo kiến thức hành nghề môi giới, điều hành sàn BĐS;
- (v) qui định rõ các chương trình đào tạo phải theo Chương trình khung do Bộ Xây dựng ban hành.
Các quy định mới này kỳ vọng sẽ tạo tiền đề để từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp, minh bạch và để sàn giao dịch, môi giới BĐS phát huy đúng vai trò của mình. Theo đó, người mua nhà cũng được hưởng lợi, quyền lợi được bảo đảm hơn khi hoạt động trên thị trường BĐS hướng đền minh bạch và chuyên nghiệp hơn.
Thứ chín, quy định chi tiết về việc quản lý thông tin, dữ liệu và quản lý, điều tiết Nhà nước về kinh doanh BĐS. Nhận thức được tầm quan trọng của vai trò quản lý, điều tiết nhà nước cũng như hệ thống thông tin, dữ liệu về kinh doanh BĐS, đặc biệt trong bối cảnh số hóa, áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào hoạt động kinh doanh, quản lý BĐS như hiện nay, Luật sửa đổi đã kết cấu lại Chương V (Quản lý nhà nước về kinh doanh BĐS) thành 2 chương gồm Chương VIII (Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về nhà ở và thị trường BĐS) và Chương IX (Quản lý nhà nước về kinh doanh BĐS). Trong đó, Luật đã bổ sung, làm rõ nhiều nội dung và xác định rõ vai trò của các chủ thể liên quan, cũng như giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết nhiều nội dung quan trọng để thống nhất triển khai trên toàn quốc. Tuy nhiên, Chính phủ sẽ cần quy định cụ thể trách nhiệm xây dựng, quản lý và khai thác thông tin, dữ liệu về thị trường BĐS và cho phép thí điểm một số nội dung còn chưa được giải quyết trong Luật như có chính sách thí điểm về việc dùng “đất khác” làm nhà ở thương mại nhằm giải quyết các vướng mắc hiện nay.
Thứ mười, các quy định chuyển tiếp được cụ thể hóa, góp phần giải quyết các trường hợp cụ thể và giúp DN, người dân có thêm thời gian chuẩn bị để đáp ứng các quy định mới của Luật. Luật sửa đổi quy định 13 trường hợp chuyển tiếp và cho phép các DN BĐS hoàn thiện các điều kiện hoạt động để đáp ứng quy định mới trong vòng 6 tháng kể từ ngày Luật có hiệu lực thi hành. Đồng thời, Luật mới quy định chi tiết về việc tiếp tục áp dụng Luật cũ 2014 hay áp dụng Luật sửa đổi 2023 đối với một số trường hợp như: dự án BĐS đã thực hiện xong thủ tục đầu tư, dự án BĐS thực hiện thủ tục điều chỉnh, chuyển nhượng dự án BĐS, ký hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, bảo lãnh ngân hàng…v.v.
Để đảm bảo Luật mới đi vào cuộc sống, Nhóm Nghiên cứu có sáu (6) kiến nghị
– Một là, Chính phủ chỉ đạo sớm ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn đảm bảo nhất quán, đồng bộ giữa Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật kinh doanh BĐS sửa đổi cùng với các luật liên quan khác (nhằm khắc phục chồng chéo, vướng mắc, đảm bảo hiệu lực thực thi…), trong đó cần lưu ý các điều khoản chuyển tiếp và cho phép thí điểm những vấn đề còn chưa “chín”, còn tranh luận nhiều nhưng thực tiễn thị trường đòi hỏi điều tiết.
– Hai là, Chính phủ cần quan tâm xây dựng cơ sở thông tin, dữ liệu, chỉ số giá BĐS; ban hành qui định về xây dựng và khai thác cơ sở thông tin, dữ liệu đất đai, BĐS, trong đó cần quy định rõ trách nhiệm, cách thức thực hiện, phối hợp trong việc cung cấp, quản lý, khai thác thông tin, dữ liệu đất đai, BĐS…của các tổ chức, cá nhân liên quan; có giải pháp cụ thể nâng cao năng lực quản lý, điều tiết thị trường đất đai, BĐS, hướng tới công khai, minh bạch và chuyên nghiệp hơn.
– Ba là, cần sớm ban hành Đề án thí điểm cho phép thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng “đất khác” (không phải là đất ở); việcthí điểm nên được triển khai tại một số tỉnh, thành phố lớn… để tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc cho các dự án BĐS (đặc biệt các dự án nhà ở xã hội, nhà ở thương mại).
– Bốn là, chú trọng nội dung liên quan đến yêu cầu về chuyển đổi số, ứng dụng CNTT, chuyển đổi xanh và chuyển đổi năng lượng trong phát triển, quản lý, sử dụng đất đai và BĐS phù hợp với xu hướng hiện nay và góp phần thực hiện cam kết Net Zero của Việt Nam tại Cop26 (2021).
– Năm là, xem xét bổ sung, làm rõ một số nội dung của Luật sửa đổi tại các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, nhất là 4 trường hợp cụ thể sau:
- (i) Về điều kiện chuyển nhượng 1 phần hoặc toàn bộ dự án BĐS: Luật sửa đổi quy định chủ đầu tư chuyển nhượng phải hoàn thành nghĩa vụ tài chính về đất đai của dự án. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát triển dự án đầu tư, kinh doanh BĐS là một quá trình, gồm nhiều công đoạn (bồi thường, giải phóng mặt bằng; quy hoạch, thiết kế; làm hồ sơ, thủ tục và nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội; đầu tư xây dựng các công trình kiến trúc theo quy hoạch và thiết kế đã được duyệt…). Chuyển nhượng dự án là hoạt động giữa các nhà đầu tư với nhau, chưa phải là chuyển nhượng nhà ở, BĐS cho người mua cuối cùng. Nếu DN bên chuyển nhượng chưa hoàn tất các thủ tục hoặc công đoạn đầu tư, thì bên nhận chuyển nhượng dự án sẽ tiếp tục hoàn tất các công việc này. Vì vậy, quy định này có thể chưa thực sự phù hợp với thực tế, có thể kéo dài thủ tục, thời gian chuyển nhượng dự án.
- (ii) Về trường hợp chuyển nhượng dự án mà bên nhận chuyển nhượng là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Luật sửa đổi quy định sẽ thực hiện theo Luật Đất đai 2024 (trong khi đó Luật Kinh doanh BĐS 2014 thì quy định bên chuyển nhượng phải làm thêm thủ tục trả lại đất cho Nhà nước, trong khi tổ chức kinh tế trong nước thì không cần). Vì vậy, cần lưu ý vấn đề này khi hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2024 và Luật Kinh doanh BĐS 2023, đảm bảo nhất quán và công bằng giữa tổ chức kinh tế trong nước và có vốn nước ngoài.
- (iii) Về việc chuyển nhượng hợp đồng thuê BĐS: Luật sửa đổi chưa quy định việc chuyển nhượng hợp đồng thuê BĐS. Điều này có thể dẫn tới bên thuê không thực hiện được việc chuyển nhượng hợp đồng thuê do một số cơ quan từ chối thực hiện thủ tục liên quan với lý do chưa có quy định của pháp luật hướng dẫn trình tự, thủ tục hoặc mức thuế khi chuyển nhượng hợp đồng thuê.
- (iv) Về việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán công trình xây dựng hình thành trong tương lai: Luật sửa đổi quy định việc chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh BĐS không bao gồm trường hợp mua bán công trình xây dựng hình thành trong tương lai, trong khi căn hộ du lịch, biệt thự du lịch, officetel đang nhận được sự quan tâm, đầu tư khá lớn từ người dân và doanh nghiệp. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể nội dung này.
– Cuối cùng, tăng cường tuyên truyền, phổ biến về các đạo luật đã được thông qua (nhất là Luật đất đai, Luật Nhà ở, Luật kinh doanh BĐS, Luật các TCTD sửa đổi…, đặc biệt là các điểm mới, đáng chú ý và có nhiều tác động cũng như các điểm cần được làm rõ, cần được hướng dẫn đầy đủ, chi tiết hơn) cho người dân, tổ chức và các bên liên quan nhằm tăng hiểu biết, nhận thức, tuân thủ và góp ý chính sách, tăng hiệu lực thực thi trong thực tiễn.
H. Kim (Ghi theo Báo cáo của Nhóm tác giả)
Theo Anh ninh Tiền tệ