Khi bỏ Sổ hộ khẩu giấy từ đầu năm 2023, người dân có thể sử dụng một số cách thức khai thác thông tin về cư trú để thực hiện các thủ tục về đất đai.
Từ ngày 1/1/2023, Sổ hộ khẩu , Sổ tạm trú sẽ không còn giá trị nữa theo quy định của Luật Cư trú năm 2020. Các cơ quan chức năng đã thống nhất quản lý thông tin công dân bằng dữ liệu điện tử trên hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được tích hợp trên căn cước công dân gắn chíp.
Vậy những thủ tục về đất đai cần đến Sổ hộ khẩu giấy như sang tên “ sổ đỏ ” sẽ được thực hiện ra sao?
Theo quy định hiện hành, những thủ tục về đất đai cần Sổ hộ khẩu giấy gồm:
Xác định việc sử dụng đất ổn định (điểm e, khoản 2 Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP); Xác nhận nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp;
Đăng ký biến động đất đai khi phân chia hoặc hợp nhất quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình, của vợ và chồng; Đăng ký biến động về sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất do thay đổi thông tin về người được cấp Giấy chứng nhận (Điều 2 Thông tư 09/2021/TT-BTNMT).
Trước khi Sổ hộ khẩu giấy bị “xóa sổ”, Bộ Công an đã hoàn thiện và gửi Bộ Tư pháp thẩm định dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến việc nộp, xuất trình Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công.
Theo đó, có 5 cách thức khai thác thông tin về cư trú khi bỏ Sổ hộ khẩu giấy, đó là:
Như vậy, khi bỏ Sổ hộ khẩu giấy, người sử dụng đất có thể sử dụng một trong 5 cách trên để thực hiện các thủ tục về đất đai.
Ngoài ra, khi bỏ Sổ hộ khẩu giấy, Dự thảo Nghị định trên cũng đã sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 2 Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP. Theo đó, thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định căn cứ vào thời gian và nội dung có liên quan đến mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau:
Thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, giấy xác nhận thông tin về cư trú, thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, giấy khai sinh, giấy tờ nộp tiền điện, nước và các khoản nộp khác có ghi địa chỉ nhà ở tại thửa đất đăng ký.
Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) cũng đã rà soát các TTHC về đất đai quy định việc nộp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú hoặc có yêu cầu về giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng Bộ TN-MT.
Trên cơ sở quy định của Luật Cư trú, chỉ đạo Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để nghiên cứu, rà soát các văn bản thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ để sửa đổi kịp thời đáp ứng được yêu cầu.
Đồng thời, khi cơ quan tài nguyên và môi trường giải quyết thủ tục hành chính về đất đai cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì thực hiện việc kết nối, chia sẻ thông tin từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Theo đó, về xử lý theo thẩm quyền của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì một số nội dung liên quan đã được xử lý một phần tại Thông tư số 09/2021/TT-BTNMT.
Tại khoản 5 Điều 11 Thông tư số 09/2021/TT-BTNMT đã quy định: “Đối với trường hợp nộp hồ sơ thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận mà có yêu cầu thành phần là bản sao Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy chứng minh quân đội hoặc thẻ Căn cước công dân hoặc Sổ hộ khẩu hoặc giấy tờ khác chứng minh nhân thân thì cơ quan tiếp nhận hồ sơ sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mà không yêu cầu người nộp hồ sơ phải nộp các giấy tờ này để chứng minh nhân thân trong trường hợp dữ liệu quốc gia về dân cư được chia sẻ và kết nối với dữ liệu của các ngành, các lĩnh vực (trong đó có lĩnh vực đất đai)” để hạn chế xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú và sử dụng thông tin về nơi cư trú khi người sử dụng đất thực hiện TTHC về đất đai theo quy định của Luật Cư trú, bảo đảm đẩy mạnh cải cách TTHC theo chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của một số thông tư liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành trong năm 2022 để tiếp tục xử lý đầy đủ các nội dung liên quan đến Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú hoặc có yêu cầu về giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú theo yêu cầu của Luật Cư trú.
Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành theo thẩm quyền Quyết định số 1686/QĐ-BTNMT ngày 30/8/2021 về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành; thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính thay thế trong lĩnh vực đất đai thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ, trong đó quy định việc chia sẻ, kết nối dữ liệu dân cư phục vụ công tác giải quyết thủ tục hành chính về đất đai: “Đối với trường hợp dữ liệu quốc gia về dân cư được chia sẻ và kết nối với dữ liệu của các ngành, các lĩnh vực (trong đó có lĩnh vực đất đai) thì cơ quan tiếp nhận hồ sơ sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mà không yêu cầu người nộp hồ sơ phải nộp bản sao Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy chứng minh quân đội hoặc thẻ Căn cước công dân hoặc Sổ hộ khẩu hoặc giấy tờ khác để chứng minh nhân thân.”
Về đề xuất hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ, đối với các thủ tục hành chính về đất đai quy định việc nộp Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú hoặc có yêu cầu về giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ (xác định việc sử dụng đất ổn định của người sử dụng đất tại Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP; Xác nhận nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP): Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đề xuất sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai cũng như phối hợp với Bộ Công an để rà soát, hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của 19 Nghị định do Bộ Công an chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành trong năm 2022.
Các nội dung trên được đề xuất sửa đổi theo hướng trường hợp không khai thác được thông tin hoặc thông tin đó không có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia, Cơ sở dữ liệu chuyên ngành và hệ thống thông tin do cơ quan nhà nước tạo lập thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công gửi văn bản đến cơ quan đăng ký cư trú, quản lý về thông tin của công dân để xác nhận, cung cấp thông tin.