Ông nội tôi di chúc một mảnh đất để làm từ đường. Ông có ba người con trai, hiện mảnh đất đang đứng tên bác cả tôi.
Gia đình tôi gốc ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, được ông nội để lại di chúc là một mảnh đất dùng để làm từ đường cũng như là nơi để con cháu ngày lễ Tết có thể về ở.
Gia đình ông có ba người con trai. Chúng tôi là thế hệ cháu. Hiện mảnh đất đó đứng tên bác cả. Tất cả anh em chúng tôi đều biết điều đó, hiện tại thì không ai có ý kiến gì về việc phân chia mảnh đất đó vì tất cả đều hiểu là của chung.
Nhưng anh em chúng tôi lo ngại tới đời sau thì không biết thế nào. Vì vậy mong quý luật sư tư vấn giúp những câu hỏi sau:
1. Có thể để ba người con của ông nội tôi (ba gia đình gồm bác cả, gia đình bố tôi, gia đình nhà chú) đứng tên trên một mảnh đất đó được không? Mục đích để sau này gia đình hay con cháu nhà bác cả có muốn bán thì cũng không thể bán được do phải hỏi ý kiến của hai gia đình còn lại, hoặc có muốn bán cũng phải bán cho hai gia đình còn lại hoặc phải chia lại phần đất cho hai gia đình còn lại.
2. Có điều khoản pháp luật nào quy định khi có di chúc rồi, thì dù mảnh đất đó đứng tên ai cũng không thể bán được và mãi là của chung để con cháu sau này đều có chỗ để về?
Tư vấn của luật sư Trương Nguyễn Công Nhân như sau:
1. Mặc dù bạn trình bày ông nội có để lại di chúc nhưng không nói rõ ông nội bạn để lại di chúc cụ thể cho những ai, bác cả của bạn đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) với tư cách gì? (tư cách độc lập hay tư cách cùng đứng tên chủ sử dụng và đại diện cho những người thừa kế còn lại là ba bạn và chú của bạn).
Do đó, trường hợp của bạn có thể xảy ra hai tình huống sau:
Tình huống 1: Nội dung di chúc, ông nội của bạn xác định chỉ có bác cả của bạn là người duy nhất được hưởng di sản theo di chúc. Nếu vậy thì sau khi ông nội bạn qua đời, bác cả của bạn là người duy nhất được hưởng di sản theo di chúc, được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và là người duy nhất được toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt toàn bộ phần đất này.
Tình huống 2: Nội dung di chúc, ông nội của bạn xác định ba người (bác cả, ba bạn và chú bạn) là những người được hưởng di sản ngang nhau thì sau khi ông nội bạn qua đời, cả ba người sẽ là những người được hưởng di sản theo di chúc và cùng được đứng tên (hoặc ủy quyền cho một trong hai người còn lại đứng tên đại diện) trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp này, cả ba người đều có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt phần đất này như nhau. Bác cả của bạn không tự quyết định phần đất này, nếu không có ý kiến của ba bạn và chú bạn.
Căn cứ khoản 2, điều 98 Luật đất đai quy định về nguyên tắc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất:
“Thửa đất có nhiều người chung quyền sử dụng đất, nhiều người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phải ghi đầy đủ tên của những người có chung quyền sử dụng đất, người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất và cấp cho mỗi người một giấy chứng nhận; trường hợp các chủ sử dụng, chủ sở hữu có yêu cầu thì cấp chung một giấy chứng nhận và trao cho người đại diện”.
Như vậy pháp luật không giới hạn số lượng người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
2. Theo điều 645 Bộ luật dân sự về di sản dùng vào việc thờ cúng, nếu ông nội của bạn lập di chúc để lại một mảnh đất dùng làm từ đường thì phần đất này không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng.
Nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Theo Tuổi Trẻ Online